Quan họ Bắc Ninh

đăng bởi :

nhóm :

Thể loại

ngày đăng :

chia sẻ ngay :

Giới thiệu


Dân ca Quan họ được xem là một loại hình nghệ thuật đạt đến trình độ cao về nghệ thuật diễn xướng, lời ca và cả âm nhạc. Dân ca quan họ được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh ngày nay. Đặc biệt trong Dân ca Quan họ nổi bật lên một số làn điệu đặc sắc trong văn hóa Quan họ Bắc Ninh có thể kể đến như La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, La hời, Gió mát trăng thanh và Tứ quý.


Nguồn gốc – Lịch sử hình thành và phát triển


NGUỒN GỐC
LỊCH SỬ HÌNH HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN GỐC
NGUỒN GỐC
LỊCH SỬ HÌNH HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Quan họ ban đầu gắn liền với các nghi lễ tôn giáo dân gian, sau đó dần trở thành một lối sinh hoạt rộng rãi trên nhiều địa điểm khác nhau, thể hiện văn hoá ứng xử, suy nghĩ và ước mơ của người dân kinh Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung.

Làng Diềm Xá được xem là nơi khởi nguồn cho Quan họ. Theo thần tích làng Diềm (thôn Viêm Xá-Hoà Long-Yên Phong), công chúa Nhữ Nam con Hùng Vương đi du xuân gặp mưa to gió lớn dừng chân ở làng Diềm và ở lại dạy dân làm ăn, giáo hoá lễ nghĩa. Những lúc nông nhàn bà dạy dân các làn điệu hát đối đáp nam nữ. Nhờ có bà mà dân làng no đủ cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Khi bà mất, dân làng lập đền thờ và tôn làm thành hoàng. Đền thờ hiện nay có kiến trúc thời Nguyễn, tôn tạo năm Khải Định thứ 9 (1924), kiểu chữ nhị, gồm 3 gian tiền tế và một gian hậu cung. Trong đền có một số đồ thờ thời Lê. Hội đền vào ngày mồng 6 tháng hai âm lịch. Ngoài các nghi thức tế lễ, dâng hương còn có các sinh hoạt bọn quan họ đặc sắc để tưởng nhớ đức Vua Bà thuỷ tổ Quan họ.

Từ làng Diềm, các làn điệu và lề lối hát đối Quan họ lan toả sang các làng quê khác trong vùng. Theo truyền thuyết, vào thời Lý dân ca Quan họ đã phổ biến hầu khắp phủ Thiên Đức, ảnh hưởng tới cả các gia đình quyền quý. Chuyện kể về mối tình Trương Chi, liền anh Quan họ bậc nhất làm nghề chài cá với nàng Mỵ Nương, liền chị xinh đẹp con quan thừa tướng khẳng định điều đó.

Tuy nhiên, người có công tổ chức hát xướng và bổ sung nâng cao dân ca Quan họ được ghi vào bia đá và có sự trạng rõ ràng là Cơ quận công Đỗ Nguyên Thuỵ, quê Đình Cả-Nội Duệ-Tiên Du. Ông làm quan thời chúa Trịnh Cương. Hiện nay ở làng quê còn di tích lăng mộ đá và nhà thờ khá hoàn chỉnh, kiến trúc hài hoà với nhiều hiện vật quý, xây dựng từ năm 1734. Tại lăng mộ có bia Thọ phúc thần hiến điền bi kí ghi rõ: Tết Trung thu năm nào Đình Cả và Lộ Bao không tiến hành ca hát được thì phải noi theo các xã, thôn khác chiếu lệ phụng thờ, từng ngày sửa lễ vật như khi có công việc ca hát.

Theo văn bia được biết, từ năm 1724 quận công Đỗ Nguyên Thuỵ đã hiến cho các xã, thôn thuộc tổng Nội Duệ số ruộng như sau: Đình Cả 12 mẫu; Lộ Bao 5,5 mẫu và 100 quan tiền; Duệ Khánh 5,5 mẫu và 100 quan tiền; Duệ Nam 3,1 mẫu 6 thước và 100 quan tiền; Lũng Giang 6 mẫu và 100 quan tiền; phường bát âm cửa đình huyện Tiên Du 3 mẫu 5 thước và 100 quan tiền. Quận công Đỗ Nguyên Thụy tổ chức thi hát Quan họ quy mô hàng tổng với ý nguyện: Mong mỏi hai thôn Đình Cả, Lộ Bao cùng Nội Duệ, Nội Khánh và các xã thôn khác, hằng năm vào dịp cầu phúc, hát xướng tết Trung thu phái cố noi kịp để nuôi dài huyết mạch.

Do được đầu tư mạnh về vật chất mà dân ca Quan họ có bước phát triển mới phong phú hơn, nó kế thừa cả các làn điệu dân ca khác. Lời ca cũng được bổ sung văn học bác học làm cho trang trọng hơn, như: “Nhất quế nhị lan/Nhất xinh, nhất lịch khôn ngoan đủ trăm chiều.” Thậm chí nhạc tuồng Tàu cũng được vận dụng như các tiếng đệm hồ, xừ, xang, cống, líu, từ đó tạo nên một đặc trưng âm sắc là vang, rền, nền, nẩy.

Bước phát triển mới của nghệ thuật biểu diễn Quan họ vào khoảng năm 1769 Cảnh Trung hầu Nguyễn Diễn cùng người Đình Cả mua nửa núi Hồng Ân (đồi Lim) hiến cho tổng Nội Duệ. Tiếp đó ni cô Mụ Cả mua hiến nốt nửa núi còn lại thì hội hát Quan họ 13 tháng Giêng chuyển lên tập trung ở đồi Lim và duy trì đến tận ngày nay. Từ cuối thế kỷ 19, nhà văn hoá Đỗ Trọng Vĩ đã viết trong sách Bắc Ninh địa dư chí như sau: Các xã Lũng Sơn, Lũng Giang ngày xuân ở đình có cây đu, đường làng có trai gái tụ họp ca hát. Lời hát như sau: Gió đưa lay cúc ngả quỳ/Ba năm trực tiết còn gì là xuân. Lại có câu: Cây cao gió đánh lưng chừng/Gặp anh từ đấy vui mừng từ đây. Đây là nói những nét lớn, còn về mặt đình đám hội hè thì nổi tiếng nhất là hội làng Phù Đổng, thứ đến hội núi Hồng Ân tổng Nội Duệ rất đông vui.

Khoảng giữa thế kỷ 20, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã viết khái quát về dân ca Quan họ trong cuốn Tục ngữ, dân ca, ca dao Việt Nam: Hát Quan họ được xây dựng trên tình bạn. Về hình thức, hát Quan họ có hàng trăm điệu. Cái đặc biệt của hát Quan họ là nó hoàn toàn phục vụ cho nhạc và hát không có đệm đàn sáo, ở mọi bài hát Quan họ, những tiếng láy đi láy lại, những tiếng đệm, những tiếng đưa hơi rất nhiều, nó làm cho lời ca lên bổng xuống trầm như cung đàn, cho nên một điệu Quan họ cần phải được hát lên người ta mới cảm thấy hết được cái say sưa của nhạc điệu.

Vào năm 2009, dân ca Quan họ được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật này.

(1) Viêm Xá còn gọi là Diềm Xá nay thuộc xã Hòa Long, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

(2) Diềm: làng Diềm Xá (Viêm Xá); Bịu: làng Bịu Sim.

Nguồn gốc của Quan họ gắn liền với đời sống văn hóa cộng đồng của cư dân hai bên bờ sông Cầu, nơi cư trú của người dân Kinh Bắc xưa kia. Cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu về Quan họ đã được triển khai, nhưng chúng ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc chính xác của nó. Dưới đây là một số nguồn gốc của Quan họ được biết đến nhiều nhất:

1. Lê Văn Hảo trong Bắc Ninh tỉnh khảo dị (bản chép tay, thư viện Paris) viết:

“Làng Viêm Xá kết nghĩa với làng Hoài Bão. Diêm Xá (1) mở hội thờ thần vào mồng 4 tháng Giêng và mồng 10 tháng Tám. Mỗi lần có hội, Diêm Xá mời một đoàn trai làng Hoài Bão sang. Sau khi tế lễ xong thì tổ chức ca hát. Bên Viêm Xá toàn là nữ, bên Hoài Bão toàn là nam. Trai gái hai làng hát đối đáp với nhau. Dân Viêm Xá quan niệm rằng năm nào làng không cử hành lễ hội như vậy thì trong làng sẽ xảy ra nhiều chuyện bất an, người vật bị ốm, mùa màng thất bát, buôn thua bán lỗ, dân làng cãi cọ nhau, trai gái sinh ra tật hư nết xấu. Vì vậy mà có hát Quan họ”.

2. Nguyễn Duy Kiện trên Việt Báo ngày 21/2/1940 viết:

“Đã lâu lắm từ thời thượng cổ, nhân dân hai làng Lũng Nhai và Tam Sơn giao hảo với nhau rất thân mật. Hễ làng nào có việc quan, hôn, tang, tế… thì báo cho làng kia biết để dân làng kia cử vài người đại biểu, đem đồ lễ sang viếng hoặc mừng nhà hữu sự. Làng Tam Sơn hằng năm cứ tháng Giêng có lễ vào đám thờ cúng thành hoàng, trong làng mở hội, các cụ bên Lũng Nhai lại sang chơi. Sáng ngày 13 tháng Giêng, họp nhau 5-7 cụ ông, 5-7 cụ bà và một số đông nam thanh nữ tú biết hát kéo nhau sang Tam Sơn. Bên Tam Sơn cũng cử một số người ra thù tiếp. Sau khi đã ngồi trên dưới thứ tự tại đình thì bắt đầu hát. Trai bên này hát, gái bên kia đáp, còn các cụ thì ngồi nghe. Từ thuở ban sơ cổ đại, hai làng cứ theo tục này mà di truyền. Đó cũng là nguồn gốc của hát Quan họ”.

3. Trong Dân ca Quan họ Bắc Ninh (Lưu Hữu Phước – Nguyễn Văn Phú – Nguyễn Viêm – Tú Ngọc, NXB Văn Hóa – 1962) có in lại 8 truyền thuyết về nguồn gốc Quan họ của nhóm tác giả Lưu Khâm – Nguyễn Đình Tấn – Nguyễn Viêm, một trong những truyền thuyết đó như sau:

“Ông Tập ở Viêm Xá (Võ Giàng) cho biết: Cách nay 12 đời có hai người làm quan thị vệ trong triều, một người quê ở Diềm (2), một người quê ở Bịu (2). Hiện nay ở Diềm còn di tích lăng mộ, ở Bịu không còn. Hồi còn quan hai người có chơi với nhau, đến khi về hưu thì giao ước kết bạn đi lại, nếu ở làng ai có vui như cưới xin, khao lão thì mời cả hai họ về dự. Thời đó nhân dân vẫn có hát Đúm, nhưng từ khi hai họ này kết bạn thì người ta đem những câu hát Đúm vào để ca hát trong những ngày vui đó. Từ đó lưu truyền tục lệ này. Cứ hội Diềm tháng 8, hội Bịu tháng 1, người ta lại tụ họp, ngồi chung quanh một ngọn đèn lớn để ca hát và Quan họ do đó sinh tên (hai họ nhà quan hát với nhau) và từ đấy gọi ‘Quan họ’ thay thế cho hát Đúm”.

Có thể thấy, những nhận định về nguồn gốc của Quan họ có điểm chung là xoay quanh lối hát đối đáp giữa hai họ, hai làng, hai đối tượng. Dù thời điểm phát sinh của Quan họ chưa được thống nhất (thời thượng cổ, thời Lý, thời Trần, thời Lê…), nhưng các học giả đều đồng ý rằng, ban đầu, Quan họ vốn mang tính chất lễ nghi, được biểu diễn trong các dịp tế lễ ở đình làng, miếu, chùa, mừng thọ hay khao lão.

Đặc trưng nổi bật


THỂ LOẠI
ÂM NHẠC
NGHỆ THUẬT
TRANG PHỤC
SÂN KHẤU
THỂ LOẠI
THỂ LOẠI
ÂM NHẠC
NGHỆ THUẬT
TRANG PHỤC
SÂN KHẤU

Làn điệu

Dân ca Quan họ được xem là một loại hình nghệ thuật đạt đến trình độ cao về nghệ thuật diễn xướng, lời ca và cả âm nhạc. Đặc biệt trong Dân ca Quan họ nổi bật lên một số làn điệu đặc sắc trong văn hóa Quan họ Bắc Ninh có thể kể đến như La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, La hời, Gió mát trăng thanh và Tứ quý.

Hát

Hát Quan họ là hình thức hát đôi đồng giọng với bốn đặc điểm chính: vang – rền – nền – nảy. Bốn đặc điểm này đều là những yếu tố phổ biến trong các thể loại hát dân ca, tuy nhiên mỗi thể loại đều có cách thực hiện khác nhau và chính sự kết hợp độc đáo của các đặc điểm này đã tạo nên sự khác biệt cho dân ca Quan họ. 

  1. Nền

Yếu tố nền có mối quan hệ mật thiết với đặc điểm sử dụng tiếng đệm trong hát Quan họ. Theo đó, tiếng đệm là những âm thanh không thuộc phần lời thơ, như i, a, ơ, ư, hự, rằng, là, ru hời, tính tình tang… Trong bài hát Quan họ, tiếng đệm vừa có tác dụng làm nền thay cho dàn nhạc đệm, vừa là yếu tố kết nối âm điệu của lời thơ. Thông qua các nốt luyến, lướt, hoa mỹ, thêu, tiếng đệm đã góp phần tạo nên giai điệu đặc trưng của Quan họ và ảnh hưởng mạnh mẽ đến kỹ thuật hát của thể loại này. 

Nền được coi là đặc điểm của các tiếng đệm tạo nên mặt bằng giai điệu. Tiếng đệm được sử dụng để đệm hơi, đệm nhịp hoặc đệm nghĩa cho dễ hát và đồng thời cũng phát triển giai điệu bài hát. Đặc biệt hơn, tiếng đệm trong Quan họ còn có tác dụng thay thế cho dàn nhạc đệm, làm nền cho lời thơ và hỗ trợ các yếu tố vang, rền, nảy. 

Hát tiếng đệm yêu cầu kỹ thuật tương đối cao, phải giữ hơi thở đều, liên tục, khẩu hình vừa phải, vị trí âm thanh ít thay đổi để giai điệu bài hát được đều đặn, nối tiếp nhau và không bị đứt quãng. Đồng thời phải biết điều tiết độ to nhỏ, mạnh nhẹ của tiếng đệm để không lấn át âm điệu của lời thơ mà phải khiến lời thơ nổi lên trên nền âm thanh đệm. 

  1. Rền

Rền là đặc điểm âm thanh trong câu hát hay trổ hát có độ rung đều, liên tục không dứt. Rền trong Quan họ được thể hiện qua cách hát luyến láy và rung giọng làm cho giai điệu bài hát phát triển liên tục và tạo nên sắc thái âm thanh đặc trưng trong Quan họ. 

Hát rền đòi hỏi kỹ thuật nhấn nhá, luyến láy và rung giọng tinh tế, điêu luyện để có thể xử lý các câu hát. Âm thanh phát ra phải mang độ vang và rung, đồng thời giọng không được đứt quãng. Khi hát rền cần giữ tư thế và cổ họng thoải mái, tự nhiên, khẩu hình mở vừa phải, âm thanh đặt ở hàm trên, hàm dưới rơi tự do, lấy hơi vừa đủ, khống chế hơi đều, liên tục không đứt, gãy và đặc biệt cần độ rung của thanh quản. 

  1. Nảy

Nảy còn được gọi là nảy hạt, là một kiểu sáng tạo của nghệ thuật dân gian, với đặc điểm là âm thanh bị tắc lại ở họng, sau đó được bật ra ngoài tạo nên độ nảy của âm thanh. Những âm nảy trong hát Quan họ tương đối phong phú, thường rơi vào những âm ở họng hoặc tắc họng như ư, hự, í, ợ, ạ,… và có một số trường hợp rơi vào phần lời thơ của bài hát. Có hai kiểu nảy hạt:

  • Kiểu 1: sau khi làm âm thanh tắc lại ở họng, người hát bật âm ra, tiếp tục kéo dài và phải giữ độ rung của giọng.
  • Kiểu 2: sau khi làm âm thanh tắc lại ở họng, người hát vẫn bật âm ra nhưng không kéo dài mà đột ngột dừng lại.

Đặc điểm này có thể coi là điểm nhấn trong chuỗi âm thanh rền, làm cho câu hát, trổ hát thêm ấn tượng và độc đáo. Để hát được nảy hạt, khẩu hình chỉ cần mở vừa phải, phù hợp với từng âm nảy, hàm dưới thả lỏng và cằm hơi hạ thấp xuống, môi và hàm trên hơi nhếch lên, điều khiển hơi và dùng lực bằng hơi thở đẩy mạnh cho âm nảy hạt bật ra. 

  1. Vang

Vang là đặc điểm âm thanh truyền đi mạnh và lan tỏa rộng ra xung quanh. Để hát được kỹ thuật vang trong Quan họ cần một số yếu tố hỗ trợ bao gồm giai điệu được phát triển liên tục của bài hát, các âm thêu, luyến, nốt hoa mỹ, âm đệm mở như ơ, í ơ, í a,… và độ ngân dài. Vang là một yếu tố quan trọng ở tất cả các thể loại dân ca, đặc biệt là trong hát Quan họ. Về mặt âm nhạc, vang làm cho giai điệu bài hát phát triển ở nhiều cung bậc trầm bổng khác nhau, khiến tác phẩm nghệ thuật trở nên sống động và đặc sắc hơn. Mặt khác, bởi vang trong hát Quan họ được hỗ trợ bằng tuyến giai điệu liên tục phát triển, kết hợp kỹ thuật luyến láy và ngân những âm đệm mở và các yếu tố rền, nền, nảy nên đặc điểm vang trong Quan họ mang nét đặc thù và đòi hỏi kỹ thuật cao, không giống với các thể loại dân ca khác khi vang chỉ được ngân vào những âm ở cuối đoạn nhạc. 

Để hát được vang cần hát chậm, hơi thở phải đầy, khẩu hình mở và có độ rỗng bên trong họng. Hàm dưới rơi tự do, hàm và môi trên hơi nhếch cao, phát âm phải rõ chữ và có độ sáng, ngân có độ rung. 

Nhìn chung, sự kết hợp của bốn yếu tố vang, rền, nền, nẩy trong hát Quan họ đã tạo ra sắc thái âm thanh đặc trưng của dân ca Quan họ với những đặc điểm riêng biệt, các giá trị âm nhạc độc đáo và kỹ thuật hát tinh tế, bắt buộc người hát Quan họ cần có kỹ năng điêu luyện và biết cách kết hợp các yếu tố trên một cách uyển chuyển.

Văn hóa Quan họ là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình, nồng thắm mỗi khi có khách đến chơi nhà. Chính sự phong phú về giai điệu, Quan họ đã được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác. Dân ca Quan họ cũng có những nét nghệ thuật đặc trưng đậm đà bản sắc dân tộc.

  1. Cách thức thể hiện

Hát Quan họ là hình thức hát đôi đồng giọng: người hát dẫn, người hát luồn, hát đối đáp dẫn giọng, luồn giọng một cách điêu luyện. Giọng của hai người hát cặp với nhau phải tương hợp đến mức hai giọng trở thành một để tạo ra một âm thanh thống nhất. 

Có 4 kỹ thuật hát Quan họ đặc trưng và nổi bật nhất là: nền, rền, vang, nảy. Hát Quan họ không chỉ đòi hỏi hát tròn vành, rõ chữ, mượt mà, duyên dáng, bằng nhiều kỹ thuật như: rung, ngân, luyến, láy mà còn phải hát nảy hạt. Kỹ thuật nảy hạt của các nghệ nhân Quan họ tuy có nét chung với lối hát chèo và ca trù nhưng lại mang bản sắ rất riêng, khó lẫn với bất kì một lối hát nào khác. Tùy theo theo cảm hứng và thị hiếu của người hát, những hạt nảy có thể lớn nhỏ về cường độ.

  1. Lời ca

Quan họ có hệ thống lời ca riêng, đạt tới một trình độ riêng, đáp ứng những nhu cầu văn hóa, nghệ thuật có nhiều nét riêng của sinh hoạt văn hóa Quan họ. Nhưng cũng như âm nhạc Quan họ, lời ca Quan họ đã du nhập, thu hút tinh hoa của kho tàng thơ ca dân gian, dân tộc như: ca dao,tục ngữ, hệ thống truyện thơ nôm, lời ca của hát chèo, tuồng, ả đào, ví, trống quân, vv…

Hầu hết lời ca của các bài ca Quan họ là thơ lục bát hoặc lục bát biến thể. Có tài liệu đã thống kê, phân loại thì thấy trong tổng số bài lời ca Quan họ có 2/3 bài theo thể lục bát hoặc lục bát biến thể, số còn lại theo thể bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp, và theo các lối biến thể khác. Cũng có bài theo thể văn xuôi như bài “Ðêm qua nhớ bạn” hay  bài “Tay em nâng cái cơi đựng trầu…” Tiếng hát Quan họ đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ cao giữa sự kết hợp của thơ ca – âm nhạc – giọng hát người nghệ sĩ.

  1.   Hình tượng trong lời ca

Ngôn ngữ trong lời ca Quan họ cũng giàu tính hình tượng như ngôn ngữ thơ ca dân gian nói riêng và ngôn ngữ thơ ca nói chung. Ta có thể tìm hiểu một số thành tựu về thủ pháp xây dựng hình tượng trong lời ca Quan họ. Có những hình tượng đã quen thuộc và được khẳng định giá trị nghệ thuật trong thơ ca và nghệ thuật tạo hình từ rất sớm, ví dụ hình tượng cây trúc trong thơ ca và hội hoạ, điêu khắc… từ nhiều thế kỷ qua. Hình tượng cây trúc thường gặp ấy đã trở nên biểu tượng cốt cách, phẩm chất của người quân tử: cứng rắn, vươn thẳng, sức sống dẻo dai, vững vàng trước mọi thử thách, ý chí kiên định, nhân cách thanh cao… Nhưng hình tượng cây trúc trong lời ca Quan họ lại mang những biểu tượng gần gũi với phong độ, cốt cách, phẩm chất đẹp đẽ của người bình dân:

Ví dụ:

Hôm nay xum họp trúc mai

Tình trong một khắc, nghĩa dài trăm năm…

(La Rằng)

Người như trúc mọc ngoài trời..

Hoặc

Trúc xinh trúc mọc sân đình

Anh (Hai) xinh anh (Hai) đứng một mình cũng xinh

Trúc xinh trúc mọc bờ ao

Anh (Ba) xinh anh (Ba) đứng nơi nào cũng xinh

Trúc xinh trúc mọc đầu chùa.

Không yêu em lấy đạo bùa phải yêu.

  1.  Nghệ thuật sử dụng từ

Người Quan họ rất tài tình và cũng rất tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ có ý nghĩa xác định cụ thể, để mở ra một ý nghĩa khác có sự trừu tượng, mang những hàm ý phong phú, sâu rộng, ít lời ca nhưng tất cả đều rất ấn tượng và sâu sắc, làm cho người nghe, người cảm thụ phát huy được khả năng liên tưởng, tưởng tượng, cảm xúc riêng của cá nhân mình.

Ví dụ:

… Năm canh, sáu khắc, người ơi!

Người cười nửa miệng, em vui nửa lòng

“Người cười nửa miệng, em vui nửa lòng” cười nửa miệng, vui nửa lòng, vừa là những hình ảnh cụ thể, vừa là những từ mang tính xác định, nhưng lại để người nghe rơi vào sự liên tưởng, tưởng tượng đạt tới cảm xúc, nhận thức ở những mức độ khác nhau của sự vô hạn, và cũng rất trừu tượng về sự gắn bó tình cảm, gắn bó thân phận giữa người cửa nửa miệng và em vui nửa lòng. Cũng sử dụng thủ pháp ấy, nhưng tinh tế, sâu sắc, kín đáo đến mức nghe lâu, ngẫm lâu mới thấy ý muốn nói, mà khi đã thấy rồi thì lại thấy ý tình muốn nói kia thật rõ ràng, không cầu kỳ ẩn dấu.

Ví dụ:

Người về để nhện giăng mùng

Năm canh luống những lạnh lùng cả năm

“Nhện giăng tơ” là hình ảnh chúng ta thường xuyên gặp, nhưng nhện giăng mùng thì ít hơn. Nhện giăng tơ thường là hình ảnh của sự tơ vương, vương vấn, vương vít… một cách mong tinh tế trong tình yêu. Nhưng nhện giăng mùng thì lại gợi ý khác. Mùng là tiếng cổ để chỉ cái màn chống muỗi ngày nay ta vẫn dùng. Mùng gợi lên sự giăng mắc, bịt bùng. Nhện giăng mùng lại đặt sau Người về – sự chia ly, xa, vắng – khiến ta nghĩ tới sự quạnh vắng, cô đơn, thương nhớ… giăng mắc bịt bùng vây toả khi phải chia xa cùng người. Mong manh, nhưng suốt cả năm canh cũng chẳng vượt nổi sự vây bủa, bịt bùng ấy. Từ những hình ảnh cụ thể, xác định đã mở ra sự vẫy vùng vô hạnh của tưởng tượng và cảm xúc để người hát, người nghe đồng cảm với sự bịt bùng trong nỗi buồn chia xa mênh mông vô hạn.

Hát Quan họ là hoạt động có tính tập thể, với mục đích kết bạn giao lưu. Vào những ngày bình thường, những người Quan họ qua lại thăm hỏi nhau và thường hát vào buổi tối trong nhà, nam ngồi một bên, nữ ngồi một bên. Thời trước, trong lần đầu mới đến thăm hỏi, kết bạn, người nữ còn ngồi trong buồng hát vọng ra, nhưng khi đã quen thân thì địa điểm hát cũng trở nên linh động và đa dạng hơn. 

Trong những dịp lễ hội, Quan họ không chỉ được hát trước cửa đình, cửa chùa mà còn cả dưới gốc đa, bên sườn đồi, ven rừng, bên bờ ao, bến nước hay thả thuyền trên mặt hồ, mặt sông. Đặc biệt, khi hát trên thuyền, mỗi bên cử ra một đôi hát khá, ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ vừa chèo quanh hồ vừa hát, khung cảnh vô cùng nên thơ. Cho đến tận ngày nay, hát quan Quan họ trên thuyền đã trở thành một hoạt động sinh hoạt văn hoá không thể thiếu trong các lễ hội truyền thống của vùng quê Bắc Ninh – Kinh Bắc, để lại dấu ấn khó phai trong lòng người dân địa phương và cả khách du lịch đến vùng này. 

Hát Quan họ trên thuyền. Nguồn: Thoibaotaichinh.vn

Một dấu ấn khó phai gắn liền với giai điệu Quan họ thiết tha là sự duyên dáng, lịch lãm trong trang phục của các liền anh, liền chị. Trang phục Quan họ không chỉ thể hiện tính thẩm mỹ trong hình thức bên ngoài mà còn bao hàm cả chiều sâu văn hoá của người Quan họ – Bắc Ninh.

Trang phục Quan họ. Nguồn: tapchidulich.com.vn

Trang phục Quan họ. Nguồn: mytour.vn

  1. Trang phục của liền anh 

Bộ trang phục của liền anh gồm chiếc áo năm thân cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Tuỳ theo thời tiết mà bên trong các liền anh thường mặc một hoặc hai chiếc áo cánh, sau đó tới áo dài. Áo dài bên ngoài thường có màu đen, được làm từ chất liệu lương, the. Lớp trong là lớp áo kép, làm bằng lụa mỏng màu xanh cốm hoặc xanh lá mạ non. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, dài đến mắt cá chân, chất liệu là diềm bâu, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà, có kèm theo thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. 

Liền anh đội đầu bằng nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Trước kia do đàn ông thường búi tóc nên phải các liền anh phải vấn tóc bằng khăn nhiễu, nhưng ngày nay liền anh không đội nhiễu nữa mà chỉ đội khăn xếp. Đặc biệt, chiếc khăn xếp phải tuân theo quy tắc gồm năm vòng, tượng trưng cho người quân tử: nhân – nghĩa – lễ – trí – tín.

Trang phục liền anh. Nguồn: landieuquanhobacninh.blogspot.com

Ngoài ra liền anh còn dùng các phụ kiện như: ô đen, lược, quạt,… Mỗi người cũng có một chiếc khăn tay bằng lụa hoặc bằng các loại vải trắng, rộng, gấp nếp và được gài gọn trong vành khăn hoặc thắt lưng. Bộ trang phục truyền thống đã tạo nên nét thanh lịch cho các liền anh Quan họ. 

  1. Trang phục của liền chị 

Trang phục của liền chị Quan họ mang nét chung của người phụ nữ Việt Nam xưa, cũng mang “cái yếm lụa sồi, cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân”. Nhưng vẫn đem lại dấu ấn với những nét rất riêng của các liền chị. Áo mớ ba mớ bảy, khăn mỏ quạ, nón quai thao là những nét đặc trưng trong trang phục của các liền chị Quan họ xưa và nay. Về cơ bản, bộ trang phục gồm nhiều thành phần. Bên trong cùng mặc yếm màu rực rỡ, thường làm bằng lụa truội nhuộm. Có hai loại yếm là yếm xẻ cổ dùng cho các liền chị tuổi trung niên và yếm cổ viền dành cho thanh nữ. “Áo mớ ba mớ bảy” là ba áo dài mặc lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào nhau (mớ bảy). Tuỳ theo thời tiết nóng hay lạnh mà các liền chị sẽ mặc áo “mớ ba” hoặc “mớ bảy”. Tiếp đó là những lượt áo dài năm thân, có cài khuy, khác với kiểu áo tứ thân thắt hai vạt trước. Chất liệu may áo tứ thân đẹp nhất thời xưa là the và lụa. Áo dài ngoài thường có màu nền nã như màu nâu già hoặc màu đen, còn những lượt áo bên trong lại có gam màu tươi sáng như màu cánh sen, màu thiên thanh, màu vàng chanh, vàng cốm,… Chiếc yếm thắm không bị che khuất hoàn toàn mà còn góp phần tô điểm thêm cho bộ trang phục với điểm nhấn ấn tượng rực rỡ ấn tượng trên nền the óng ả. 

Đi cùng với yếm là dải yếm. Dải yếm to buông ngoài cùng áo thắt vòng quanh eo và thắt múi ra phía trước cùng với bao và thắt lưng. Bao lưng được dệt bằng tơ đã se sợi, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, được thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt ba thân áo trước thành múi. Thắt lưng thường nhỏ hơn bao lưng, cũng được buộc múi phía trước cùng bao và dải yếm, tạo nên sự pha trộn các màu sắc rực rỡ, tôn thêm vẻ duyên dáng cho các liền chị.

Trang phục liền chị. Nguồn: landieuquanhobacninh.blogspot.com

Liền chị thường mặc váy màu sẫm, dài chấm gót, được may bằng sồi, lụa, tô điểm thêm đôi dép mũi cong duyên dáng. Các chị cũng vấn tóc bằng khăn mỏ quạ, được đặt chính giữa ngôi tóc, vén hai góc khăn về phía hai bên tai rồi thắt nút lại đằng sau gáy. Trên đỉnh đầu các chị em thường đội nón quai thao, một loại nón chỉ dùng trong dịp đặc biệt trang trọng như lễ tết, hội hè. Nón có kích thước khá lớn, tạo nên vẻ đẹp đặc trưng của người con gái Quan họ: 

“Người Kinh Bắc hay cười duyên đến lạ

Nón quai thao như tình nghĩa vẹn tròn”.

Bộ trang phục cầu kỳ, tỉ mỉ đến từng chi tiết, không chỉ truyền tải vẻ đẹp rất riêng của dân ca Quan họ mà còn tôn lên nét đoan trang, đằm thắm của các liền chị khi ca những bài ca Quan họ.

1.      Hát hồi đáp

Khi hát vui ở hội, ở một canh hát gặp gỡ bạn bầu. Đối đáp nam nữ, đối giọng, đối lời và hát đôi nam đối với nữ.  Ðối đáp nam nữ là bên gái hát một bài, tiếp đó, bên trai lại hát một bài, cứ thế dài hết cuộc hát hoặc canh hát. Ðối giọng: Bên hát trước hát bài có làn điệu âm nhạc như thế nào thì bên hát sau hát đối lại một bài cũng có làn điệu âm nhạc như thế. Ðối lời: Ðối lời khác với đối giọng không chỉ ở chỗ một bên thuộc lĩnh vực âm nhạc, một bên thuộc lĩnh vực thơ ca, mà còn khác ở chỗ, nếu bên hát trước đã hát một lời ca nào đấy (một đoạn thơ, một bài thơ…) thì bên hát sau cũng sử dụng làn điệu âm nhạc giống như bên hát trước, nhưng lời ca phải khác đi mà vẫn gắn bó với tình, ý, hình tượng…của lời ca người hát trước để tạo nên hiệu quả hô-ứng, tương hằng, đối xứng, cảm thông. Hát đối nam nữ, đối giọng, đối lời được coi là sự đối đáp hoàn chỉnh theo lề lối của Quan họ.

2.  Hát canh

Nhiều nơi kiêng chữ hát, nên canh hát còn được gọi là canh ca. Một canh hát Quan họ đúng lề lối xưa thường diễn ra vào mùa xuân hoặc mùa thu, mùa của hội chùa, hội đình làng vào đám, giữa những nhóm Quan họ nam và nữ mới nhau đến nhà “ca một canh cho vui bàu vui bạn, vui xóm, vui làng, cầu may, cầu phúc”.Canh hát thường được giữ đúng các lề lối như Quan họ đã định ra và thường kéo dài từ 7, 8 giờ tối đến 2, 3 giờ sáng. Tuy nhiên, có những hội làng mở nhiều ngày, những canh hát kéo dài theo đó.

Trình tự một canh hát đúng lề lối có thể chia thành 3 chặng:

+ Chặng đầu tiên: Người ta hát những giọng cổ cũng gọi là giọng lề lối. Hừ la, La rằng, Ðương bạn (Bạn lan), Tình tang, Cây gạo, Cái ả…Các giọng cổ thường mang âm điệu cổ kính, từ từ,  chậm rãi, rền, nẩy, nhiều tiếng đệm lót, nhưng lại mang nhiều dấu hiệu đặc trưng của ca hát Quan họ truyền thống.

+ Chặng giữa: Quan họ hát sang những bài thuộc hệ thống mà người Quan họ gọi là Giọng vặt. Trình tự hát canh đã được người Quan họ chỉ rõ bằng một câu nói quen thuộc, cửa miệng: “Quan họ càng về khuya càng bổng, càng trầm, càng mặn nồng tình nghĩa.” Chính vì vậy, canh càng về khuya những bài hát thiết tha gắn bó, về nỗi nhớ, niềm thương, đôi khi, kể cả những nỗi trăn trở về cuộc đời, về số phận con người…

+ Chặng cuối: Thường diễn ra vào khoảng 12 giờ đêm, 1 giờ sáng, có thể cuối hoặc gần cuối chặng hát giữa, su lúc người Quan họ mời nhau xơi tiệc mặn và tiệc ngọt có nơi uống rượu, có nơi không.

3.  Hát hội

Có 2 hình thức hát Hội là:

   + Hát vui: Là hình thức ca hát Quan họ chủ yếu ở hội. Có thể là đôi nhóm Quan họ nam nữ đã kết bạn hẹn nhau đến hội ca cùng nhau. Cũng có thể nhóm nam nữ đã kết bạn mời một nhóm nam nữ Quan họ khác cũng đã kết bạn, rồi nhóm nam của nhóm này hát với nhóm nữ của nhóm kia để “mở rộng đường đi lối lại, học đòi đôi lối, đôi câu”… Người Quan họ gọi là hát vui, ca vui, không phải theo những lề luật như hát thi, hát canh, chỉ cần tuân theo một số điều của lề lối truyền thống: hát đôi, đối đáp nam nữ. Trong hát đối vui ở hội cũng không phải đối giọng đối lời mà thường là nặng về đối ý, đối lời để sao cho khi ca lên người ta thấy được cái tình, cái ý hai bên gắn bó, hô ứng, giao hoà cùng nhau.

   + Hát thi: Không phải lúc nào hát thi hoặc hát giải cũng được tổ chức, Tuỳ từng năm, ví dụ được mùa, làng mở hội to, dài ngày, Quan họ trong làng náo nức xin dân mời Quan họ các nơi về hát giải…, thì năm ấy, có thể có hát giải trong hội. Để mở hội hát giải ở một làng thì làng ấy phải chọn được nhóm Quan họ ra giữ giải, để Quan họ các nơi về phá giải hay cũng gọi là giật giải.

4.  Hát lễ thờ

Khi các Quan họ rủ nhau đến hội làng để hát vui hoặc hát giải, thì mỗi nhóm Quan họ thường sắm sửa trầu, cau, hương, nến, hoa quả để vào đình làm lễ thánh và cũng là lễ trình dân. Các nhóm Quan họ thường rủ nhau có nam, có nữ cùng vào làm lễ. Các nhóm Quan họ thường ca một đôi bài theo giọng La rằng để chúc thánh, chúc dân người an, vật thịnh, phúc, lộc, thọ. Như vậy, gọi là hát lễ thờ. Khi đã hát lễ thờ rồi các nhóm Quan họ dù hát vui ở hội, hay hát canh trong nhà, đều được dân làng quý trọng và bảo trợ. Dù dưới thời phong kiến rất ngặt nghèo với việc có đàn bà, con gái trước bàn thờ Thành hoàng làng vào những dịp lễ trọng.

5.  Hát cầu đảo

Không biết tự bao giờ người Quan họ cũng như đông đảo cư dân nông nghiệp trên quê hương Quan họ tin rằng mưa, nắng thuận hoà, mùa màng tươi tốt, dân an, vật thịnh…là kết quả của hoà hợp âm dương, hoà hợp giữa đất trời và con người. Nếu âm thịnh dương suy thì gây lụt, bão. Nếu dương thịnh âm suy sẽ gây hạn hán, sâu keo…Người Quan họ tin rằng tiếng hát Quan họ có thể thấu đến trời cao và thế giới thần linh, có thể hoà hợp âm dương. Vì vậy, nếu trời hạn hán kéo dài mãi không mưa thì ở một số đền miếu trong vùng Quan họ thường có hát cầu đảo (cầu mưa). Không hát những bài tình tứ trao duyên như Quan họ thường hát mà chỉ hát những bài có nội dung cầu nguyện mưa thuận gió hoà và chỉ hát một giọng La rằng.

6.   Hát giải hạn

Con người thường tin vào số mệnh. Khi gặp nhiều việc không may hoặc tin rằng vào những tuổi, những năm, tháng nào đấy con người sẽ bị những hạn lớn như mất tiền của, bệnh tật…, thì con người đã tìm những cách giải hạn, hy vọng tai qua nạn khỏi. Đặc biệt họ có niềm tin khi Quan họ nam nữ ca xướng giao hoà đông vui, gắn bó thì cái may sẽ đến, cái rủi sẽ qua, vững lòng sống trong niềm tin, hy vọng có che chở. Hát giải hạn không bị gò bó nhiều vào lề lối mà có thể chỉ ca đối đáp một bài theo giọng La rằng, sau đó bên hát trước muốn hát bài nào thì bên hát sau hát đối bài đấy. Không đối đúng cũng cho qua và cứ thế tiếp tục kéo dài canh hát gồm những bài đối đáp có nội dung vui vẻ, gắn bó, hẹn ước, thề nguyền..

7.  Hát mừng

 Thường được hát Trong các dịp ăn mừng và khao, ngoài việc làm những nghi lễ, mời họ hàng, dân làng…đến ăn mừng, thì trong vùng Quan họ bao giờ cũng có những canh hát Quan họ của nhiều nhóm Quan họ kéo dài có khi vài ngày đêm. Trong những cuộc hát mừng này, Quan họ không phải tuân thủ lề lối nghiêm ngặt mà cốt sao có nam, có nữ, có đối đáp, hầu hết là ca những bài giọng Vặt có nội dung lời ca sâu nặng nghĩa tình, gắn bó keo sơn và không khí hát phải thật vui, nhiều tiếng cười, lời nói vui xen vào khi hát.

8.  Hát kết chạ

Quan họ giữa nam nữ hai chạ, trong đình, trước đông dân. Vào dịp có hội lễ, Các làng đã kết chạ anh chạ em cùng nhau, cũng có nơi gọi là kết ước, ăn giải thường coi nhau là người một nhà. Thường mời nhau sang dự hội. Khi đi dự hội như vậy, ngoài các vị “nóc dân đầu xã” thì Quan họ hai làng cũng mời nhau sang ca vui ở hội hoặc ca những canh hát thâu đêm trong nhà. Cuộc hát này thường gồm nhiều bài ca chúc tụng theo giọng La rằng, sau đó là đối đáp một số bài giọng Vặt mà Quan họ cho là hay, phải có giọng ca thật khéo mới “bắt” nổi. 



  1. “Quan họ”, Wikipedia Tiếng Việt
  2. “Tiểu luận: Tìm hiểu di sản văn hoá Quan họ Bắc Ninh”, TS. Phạm Thị Thuý Nguyệt, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
  3. “Lịch sử Quan họ làng Yên Mẫn” – Nguyễn Tộc Yên Mẫn Bắc Ninh, 2017
  4.  “Tìm hiểu Dân ca Quan họ”, Trần Linh Quý, Hồng Thao, NXB Văn hóa Dân tộc.
  5. “Tìm hiểu Dân ca Quan họ”, NXB Văn hoá Dân Tộc và sự giúp đỡ của Nghệ sĩ Xuân Mùi – Ðoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh
  6. “Lịch sự trong giao tiếp quan họ”,Nguyễn Diệu Thương, Phạm Quốc Tuấn, https://jst.tnu.edu.vn/jst/article/view/976/pdf
  7. “Quan họ khởi nguồn”, Phạm Thuận Thành, https://baobacninh.com.vn/news/-/details/20182/quan-ho-khoi-nguon
  8. “Nguồn gốc dân ca Quan họ”, Trịnh Văn Tỉnh, https://quanhobacninh.vn/nguon-goc-dan-ca-quan-ho/ 
    • ạn trong âTrần Việt Ngữ. “Hát Xẩm, loại ca nhạc đặc biệt của người mù Việt Nam”.m nhạc truyền thống Việt Nam. – Trần Văn Khê (2004)